Mãi mãi tuổi hai mươi – Nhật
ký thời chiến Việt Nam của liệt sỹ Nguyễn Văn Thạc do Đặng Vương Hưng sưu tầm
và giới thiệu, được nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành năm 2005, in trên khổ
13x19cm, với 295 trang viết đầy xúc động và chân thật của người lính trong
chiến tranh Việt Nam. Quyển sách này là một cuộc đời, một số phận đại
diện cho thế hệ thanh niên Việt Nam thời chiến.
Đây
là cuốn nhật ký thời chiến của một người lính, đã ghi lại chân thực và sinh
động những ngày tháng trong quân ngũ của mình. Với thời gian chỉ có 10 tháng
nhưng đã đủ sức tái hiện lên chân dung một thế hệ thanh niên Hà Nội – xếp bút
nghiên lên đường chiến đấu – theo lời kêu gọi của non sông, đất nước. Đó là một
người đạt giải nhất cuộc thi học sinh giỏi Văn lớp 10 toàn miền Bắc năm học
1969-1970, nguyên là sinh viên xuất sắc khoa Toán của trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội. Người thanh niên ấy nhập ngũ cuối năm 1971, hy sinh tại chiến trường
Quảng Trị năm 1972 khi chưa đầy 10 tháng tuổi quân và 20 tuổi đời – Người lính
ấy là Nguyễn Văn Thạc.
Để biết được hành trình của chàng trai
giỏi Văn nhất miền Bắc một thời đã bước vào cuộc chiến như thế nào, từng ngày
tháng anh chiến đấu ra sao và niềm mong ước của anh cuối những trang nhật ký,
trước khi đi chiến trường như thế nào? Xin mời các đồng chí và các em tìm đọc
những trang nhật ký của Nguyễn Văn Thạc được viết từ trang 31 đến trang 273
cuốn sách “Mãi mãi tuổi hai mươi” để được hiểu rõ.
Ngay trên trang bìa là gương mặt tuấn tú
với nụ cười tươi sáng của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Ảnh chụp lúc anh vừa đạt
giải nhất, học sinh giỏi môn văn lớp 10 toàn miền Bắc. Anh sinh ngày 14/10/1952
tại làng Bưởi - Hà Nội, trong một gia đình nghèo, dù vừa đi học vừa tranh thủ
làm phụ giúp gia đình nhưng suốt 10 năm học Phổ thông anh đều đạt được học sinh
giỏi toàn diện.
Anh học giỏi
cả Văn và Toán và là sinh viên xuất sắc của khoa Toán cơ, trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội. Anh được ban tuyển sinh xếp vào diện đi đào tạo tại Liên Xô nhưng
đó cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn mới. Chiến
trường miền Nam ngày càng gay go, ác liệt. Anh cũng như hàng ngàn sinh viên
khác, tạm xếp bút nghiên cởi áo sinh viên khoác lên mình áo lính. Không có sự
lựa chọn nào khác khi Tổ quốc lâm nguy.
Đó là ngày
6/9/1971 anh lên đường nhập ngũ. Sau 28 ngày nhập ngũ, anh đã ghi những dòng nhật
kí đầu tiên. Từ đầu nhật kí theo bước chân anh lính binh nhì dày lên trong
chặng đường hành quân của mình, cho đến cuối tháng 5/1972. Nghĩa là sau gần 7
tháng trời, vừa huấn luyện vừa hành quân vào mặt trận, mặc dù phải đi xa, đeo
nặng, nhưng tranh thủ lúc nghỉ, ngày nghỉ… Anh đã viết được 240 trang sổ tay.
Anh đã ghi chép rất kĩ lưỡng những điều mắt thấy, tai nghe. Anh trải lòng mình
qua những chân thật hồn nhiên, tinh tế. Những rung động trước những vùng đất
anh qua, những con người anh gặp…
Có rất nhiều
chuyện vui nhưng cũng có cả chuyện buồn. Quan niệm của anh là
“… Không ai muốn cuộc đời mình phải buồn bã cả nhưng rất ít người trên đời
này đạt được điều mình mong muốn, mất mát nhiều nhưng cố gắng luôn hun cháy
lòng mình. Đó mới là điều quan trọng.”
Hay là sự rung
động khoảnh khắc giao mùa của một tâm hồn nhạy cảm.“ Mùa đông chưa về đến đây.
Mình yêu cái chuyển tiếp giữa hai mùa này, xốn xang trong lòng nhiều kì niệm.
Cây sầu đông chưa mở ra những mối sầu cho mình. Chùm quả chín vàng lấm tấm trên
tà áo xanh của bầu trời nhắc mình như cái ngõ hẹp…”
Chúng ta còn bắt
gặp ở đó, một tình yêu đôi lứa của chàng trai Hà Nội. Một tình yêu lí tưởng
tiêu biểu cho thanh niên thời ấy. Quen nhau chỉ thời gian 4 tháng, số lần gặp
nhau bằng số ngón của một bàn tay, nhưng chừng đó thôi cũng đủ để hình bóng tụ
không phai mờ trong nhau. Cứ mỗi lần hành quân qua đây, lòng tôi lại nhớ em da
diết màu tím hoa mua, chẳng phải chưa hề biết nhưng đến giờ tôi mới hiểu màu
hoa. Có lẽ đó cũng là sức mạnh, là niềm tin, làm cho anh cảm thấy lạc quan trên
đường hành quân vất vả hay giữa khốc liệt của chiến trường.
“Đêm chẳng bình yên mà yên lành thế
Quả
bom lạnh lùng chúi theo dấu chân
Đường rất thơ là đường hành quân
Bởi có em đường thành trẻ lại
Đường đánh giặc chẳng bao giờ dừng lại
Đến nơi nào anh cũng thấy em.”
Tình
yêu ấy vượt thời gian và không gian chín lên trong tình cảm thương nhơ, mong
ngóng, đợi chờ hi vọng của hai người. Một điều khiến ta không khỏi kinh ngạc là
trong một số lá thư viết năm 1971 gửi cho cô bạn gái thân thiết của mình, anh
đã dự cảm được ngày 30/4/1975.
Anh hẹn gặp
chị và sẽ trả lời chính xác câu “Hạnh phúc là gì?”. Lời hẹn tiên tri ấy của anh
đã ngân một nốt trầm lắng trong lòng người con gái anh yêu, trong lòng những
người cùng thế hệ và đọng lại hôm nay một niềm bi tráng.
Ngày
30/4/1975 đã qua, nhưng anh và bao đồng đội đã không có mặt trong ngày chiến
thắng của dân tộc. Anh đã ngã xuống trong một trận đánh ác liệt bên Thành cổ
Quảng Trị khi mà tuổi đời chưa đầy 20 và 10 tháng tuổi quân với “biết bao dự
định còn dang dở”
Bởi ở đó ta
không chỉ cảm nhận, khám phá được nhiều điều thú vị về cuộc sống và xã hội miền
Bắc nước ta những năm 1966 – 1972, và còn hiểu được đời sống tâm tư tình cảm
của thế hệ thanh niên, chiến sĩ thời ấy. Đến với “Mãi mãi tuổi 20” để biết thêm
một con người, một cuộc đời “…Ở một thời mà đến được với mọi thời”. Hơn thế
nữa, tuổi trẻ chúng ta hôm nay được sống trong một đất nước độc lập tự do, nền
độc lập tự do được đánh đổi không ít máu xương của các thế hệ cha anh đi trước.
Vì vậy chúng ta phải biết quý trọng hơn cuộc sống mình đang có và hãy đóng góp
phần mình viết tiếp những dòng mới, những dòng vui tươi của dân tộc như lời
nhắn gửi mong ước của anh.
“Mãi mãi tuổi 20” có lẽ là cuốn sách rất hay
và ý nghĩa mà thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay cần tìm hiểu và suy ngẫm, để thấy được
trách nhiệm, vai trò của mình đối với đất nước này, khi thế hệ cha anh lúc trước
đã gây công xây dựng. “Mãi mãi tuổi hai
mươi” hiện có mặt tại thư viện trường với ký hiệu xếp giá là STK2-848 đang chờ
đón các thầy cô và các em cùng đón đọc, suy ngẫm.
Xin được trân trọng
giới thiệu cùng các thầy cô và các em!